|
|
 |
Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
|
Thân thế
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng Một âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7 tháng 12 năm 1258).
Cai trị
Ngày 22 tháng Mười âm lịch năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.
Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.
Niên hiệu
-
Thiệu Bảo (1278 - 1285)
-
Trùng Hưng (1285 - 1293)
Xuất gia
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm[1], Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,[2] lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.
Ông qua đời ngày 3 tháng Một âm lịch năm Mậu Thân (tức 16 tháng 12 năm 1308), được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
Tại Hà Nội có phố Trần Nhân Tông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Tác phẩm
Tác phẩm của Trần Nhân Tông có:
-
Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền)
-
Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng)
-
Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá)
-
Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm)
-
Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông)
-
Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược.
Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục[3].
Giới thiệu thi phẩm
Thiền sư Việt Nam |
|
Sơ khai
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
-
Pháp Hiền, Huệ Nghiêm, Thanh Biện
-
Định Không, Đinh La Quý, Vô Ngại
-
Pháp Thuận, Thiền Ông, Sùng Phạm
-
Ma Ha, Pháp Bảo, Vạn Hạnh
-
Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát
-
Thuần Chân, Đạo Pháp, Huệ Sinh
-
Minh Không, Bản Tịch, Thiền Nham
-
Quảng Phúc, Khánh Hỉ, Giới Không
-
Pháp Dung, Thảo Nhất, Trí Thiền
-
Đạo Lâm, Chân Không, Tịnh Thiền
-
Diệu Nhân, Viên Học, Viên Thông,
-
Y Sơn
Thiền phái Vô Ngôn Thông
-
Cảm Thành, Thiện Hội, Vân Phong
-
Khuông Việt, Đa Bảo, Định Hương
-
Thiền Lão, Viên Chiếu, Cứu Chỉ
-
Bảo Tính, Minh Tâm, Quảng Trí
-
Lý Thái Tông, Thông Biện, Đa Vân
-
Mãn Giác, Ngộ Ấn, Biện Tài
-
Đạo Huệ, Bảo Giám, Không Lộ
-
Bản Tịnh, Bảo Giác, Viên Trí
-
Giác Hải, Trí Thiền, Tịnh Giới
-
Tịnh Không, Đại Xả, Tín Học
-
Trường Nguyên, Tĩnh Lực, Trí Bảo
-
Minh Trí, Quảng Nghiêm, Thường Chiếu
-
Trí Thông, Thần Nghi, Thông Thiền
-
Hiện Quang, Tức Lự, Ứng Thuận
Thiền phái Thảo Đường
-
Lý Thánh Tông, Bát Nhã, Ngộ Xá
-
Ngô Ích, Hoằng Minh, Không Lộ, Định Giác
-
Đỗ Anh Vũ, Phạm Âm, Lý Anh Tông, Đạt Mạn
-
Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Đỗ Thường
-
Hải Tịnh, Lý Cao Tông, Nguyễn Thức, Phạm Phụng Ngự
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
-
Đạo Viên, Thông Thiền, Nhật Thiển, Tức Lự
-
Chí Nhàn, Ứng Thuận, Tiêu Dao
-
Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông
-
Trần Nhân Tông, Thạch Kim
-
Pháp Loa, Hương Sơn, Pháp Cổ
-
Huyền Quang, Cảnh Huy, Quế Đường
-
Hương Hải
|
Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần.
-
Xuân hiểu
-
Thụy khởi khải song phi
-
Bất tri xuân dĩ quy
-
Nhất song bạch hồ điệp
-
Phách phách sấn hoa phi
-
|
-
Buổi sớm mùa xuân
-
Ngủ dậy ngỏ song mây
-
Xuân về vẫn chửa hay,
-
Song song đôi bướm trắng,
-
Phất phới sấn hoa bay.
-
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
|
-
Hạnh Thiên Trường hành cung
-
Cảnh thanh u vật diệc thanh u
-
Thập nhất tiên châu thử nhất châu.
-
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
-
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu
-
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
-
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
-
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
-
Kim niên du thắng tích niên du.
-
|
-
Dạo chơi hành cung Thiên Trường
-
Cảnh thanh u vật cũng thanh u
-
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
-
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát
-
Nghìn hàng đám quít, đám quân hầu
-
Trăng vô sự chiếu người vô sự
-
Nước có thu lồng trời có thu.
-
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng
-
Độ xưa so với độ nay thua.
-
(Bản dịch Khuyết danh)
|
-
Cư trần lạc đạo phú
-
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
-
Cơ tắc xa hề khốn tắc miên
-
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
-
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.[4]
-
|
-
Dịch nghĩa:
-
Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
-
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
-
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
-
Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa.
-
Cảnh thanh u vật cũng thanh u[5]
|
Gia quyến
Tượng Giác Hoàng Trần Nhân Tông đặt trong tháp Huệ Quang
Nhận định
Đại Việt sử ký toàn thư của các sử gia thời Hậu Lê nhận định về ông:
“ |
Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân.
|
” |
—Đại Việt Sử Ký Toàn Thư[7].
|
Tượng đài
Công trình tượng đài Trần Nhân Tông được xây dựng tại khu vực An Kỳ Sinh, trên non thiêng Yên Tử có kinh phí đầu tư gần 70 tỷ đồng.
Tượng đài với các phần: Đài sen và tượng được đúc bằng đồng liền khối (nguyên liệu nhập từ Australia), nặng khoảng 100 tấn, cao 9,9 m. Bệ đỡ tượng cao 2,9m; rộng 7,25m, kết cấu bằng bê tông cốt thép cường độ chịu lực cao; sân hành lễ, bậc đá, khuôn viên được lát bằng đá phiến tự nhiên.
Chú thích
|
|

Con người là vốn quý nhất của gia đình, xã hội, quốc gia vì có thể thực hiện tất cả mọi sự tốt đẹp, tác động và chi phối toàn thể xã hội ấy.
Việc Xây dựng Nhân Hiệu Việt và quản trị tài sản vô hình của Nhân Hiệu Việt là một vấn đề còn khá mới về lý luận và thực tiễn.
Làm thế nào để Xây dựng “Hòn gạch chuẩn” cho đời người, và phương pháp hiện thực hoá các tiêu chuẩn này,
nhằm giúp mỗi công dân tạo dựng được một cuộc sống ý nghĩa, hạnh phúc và thành đạt.
Dự án giáo dục và chuỗi các hoạt động về xây dựng Nhân Hiệu Việt được tổ chức nhằm mục đích
kiến giải, gợi mở, đề xuất những giải pháp tiếp cận, định hình những giá trị cốt lõi
giúp Nhân Hiệu Việt bắt kịp thang giá trị phổ quát của nhân loại đương thời về :
• Rèn luyện nhân cách, Phẩm chất trí tuệ, Năng lực cảm thụ, Năng lực học tập, Ý thức cộng đồng.
• Tầm nhìn cần có của Nhân hiệu Việt trong thế giới phẳng.
• Xây dựng Định vị nhân hiệu và bản sắc văn hoá của nhân hiệu
• Nắm được phương pháp phát triển bản thân (PDP)
• Học hỏi những phẩm chất tinh hoa của các dân tộc.
Dự án cũng đặt ra vấn đề : mỗi cá nhân, công dân, thanh niên, tri thức trẻ Việt đã có Kế hoạch xây dựng phát triển bản thân chưa ?
đâu là cơ sở lý luận cho vấn đề cốt yếu này ? Gia đình, Xã hội, Nhà trường và mỗi cá nhân đang đứng ở đâu trong sứ mệnh này ?
Sau 9 năm xây dựng phát triển dự án NHÂN được nâng cấp lên nền tảng công nghệ mới,
xem được trên Moblile, máy tính bảng với nhiều nội dung mới. Mời anh chị tham quan:

|
|